Tính đến tháng 4 năm 2025, Ngân hàng Thế giới đã hỗ trợ Việt Nam từ năm 1993 với 25,899 tỷ USD bao gồm viện trợ không hoàn lại, các khoản vay ưu đãi và tín dụng. Danh mục hiện tại bao gồm chín dự án đang hoạt động, với tổng vốn cam kết ròng là 1,50 tỷ USD. Ngoài ra, Việt Nam còn được hưởng lợi từ một danh mục lớn và đa dạng các Dịch vụ Tư vấn và Phân tích (ASA), trong đó 16 nghiên cứu hiện đang được triển khai, huy động hỗ trợ từ các đối tác và các quỹ tín thác từ các đối tác phát triển.
Dưới đây là những kết quả chọn lọc từ hoạt động của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, nêu bật những thành tựu trên các lĩnh vực chủ chốt:
Năng lượng sạch
Với sự hỗ trợ của Dự án Nâng cao Hiệu quả Truyền tải điện Việt Nam (2015–21), lưới điện tại bốn trung tâm kinh tế đã được nâng cấp đáng kể. Các cải tiến cơ sở hạ tầng do dự án tài trợ đã tăng công suất truyền tải thêm 15% và giảm 20% chi phí vận hành và bảo trì trung bình trên mỗi megawatt giờ truyền tải . Độ tin cậy của hệ thống cũng được cải thiện đáng kể, với thời gian sự cố trung bình giảm 80%, từ 76,2 phút năm 2013 xuống chỉ còn 15,4 phút năm 2021. Ngoài những lợi ích trước mắt này, dự án còn mở đường cho một tương lai bền vững hơn. Bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho việc tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo ở quy mô lớn hơn, dự án đã giúp giảm lượng khí thải nhà kính hàng năm ước tính khoảng 95.000 tấn. Hợp phần lưới điện thông minh của dự án đã đặt nền móng cho quá trình chuyển đổi số của ngành điện.
Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên
Dự án Chống chịu Khí hậu Tổng hợp và Sinh kế Bền vững Đồng bằng sông Cửu Long (2016–24) đã giúp hơn một triệu nông dân trong khu vực chuyển đổi sang các phương thức sinh sống có khả năng chống chịu tốt hơn với khí hậu và sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn. Dự án đã tận dụng một mạng lưới rộng lớn các nhà khoa học làm việc với nông dân để tìm ra các mô hình sản xuất mới phù hợp nhất với những thách thức về nông nghiệp-sinh thái và kinh tế-xã hội, đồng thời nhân rộng các mô hình này. Dự án cũng hỗ trợ xây dựng mạng lưới cơ sở hạ tầng hỗ trợ và cải thiện hợp tác khu vực về quản lý nước và đất đai.
Vào tháng 3 năm 2024, Việt Nam đã nhận được khoản thanh toán lớn nhất từ trước đến nay (51,5 triệu USD) từ Quỹ Đối tác Carbon trong Lâm nghiệp của Ngân hàng Thế giới cho việc giảm phát thải rừng đã được xác minh, mang lại lợi ích cho hơn 1.300 cộng đồng và 70.000 người bảo vệ rừng trên sáu tỉnh Bắc Trung Bộ. Ngân hàng Thế giới tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong việc phân phối khoản thanh toán cho các cộng đồng quản lý rừng thông qua các thỏa thuận chia sẻ lợi ích và trong việc tìm kiếm các cơ hội thương mại hóa lượng giảm phát thải dư thừa được tạo ra trong chương trình này.
Quản lý Nước
Dựa trên sự thành công của dự án tiền nhiệm, Dự án Mở rộng Quy mô Cấp nước và Vệ sinh Nông thôn Dựa trên Kết quả (2016–23) đã mở rộng khả năng tiếp cận nước sạch và vệ sinh cho gần 7 triệu người ở 21 tỉnh nghèo nhất của Việt Nam. Hơn 144.000 hộ gia đình đã được tiếp cận với nguồn nước bền vững thông qua 285.000 điểm đấu nối nước mới hoặc được phục hồi, hơn 69.000 hộ gia đình đã xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh cải tiến với sự hỗ trợ tài chính của chương trình, và hơn 700 xã đã đạt được vệ sinh toàn xã. Các nỗ lực thúc đẩy vệ sinh ở gần 450 xã đã đảm bảo rằng các trường học và trạm y tế duy trì các tiêu chuẩn vệ sinh phù hợp.
Phát triển Đô thị và Quản lý Rủi ro Thiên tai
Dự án Phát triển thành phố Cần Thơ và tăng cường khả năng thích ứng của đô thị (2016–24) đã giúp bảo vệ 420.000 cư dân ở khu vực lõi đô thị của thành phố khỏi lũ lụt nghiêm trọng, ước tính gây thiệt hại kinh tế gần 200 triệu USD mỗi năm. Là thành phố lớn nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi của khu vực. Dự án đã xây dựng 14,2 km đê kè chống lũ, nâng cấp 11,6 km kênh rạch và xây dựng 12 km cống thoát nước. Dự án đã xây dựng các tuyến đường và cầu mới dài 10,4 km, kết nối các khu đô thị với các khu vực an toàn hơn. Để tăng cường quy hoạch phát triển đô thị và đầu tư, dự án đã kết hợp cơ sở hạ tầng và các hệ thống kỹ thuật số như Hệ thống Thông tin Quản lý Rủi ro Lũ lụt và Mạng lưới An toàn Ứng phó Thiên tai và Nền tảng Quy hoạch Không gian, với đồng tài trợ từ Tổng cục Liên bang Kinh tế của Thụy Sĩ. Bằng cách kết hợp công nghệ với các phương pháp truyền thống, dự án đã thiết lập một hệ thống phòng thủ vững chắc chống lại lũ lụt, thể hiện một mô hình bền vững cho phát triển đô thị và tăng cường khả năng chống chịu ở Việt Nam.
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Dự án Chuyển đổi Nông nghiệp Bền vững Việt Nam (2015–23) giúp nâng cao thu nhập của nông dân, giảm chi phí của họ và tạo ra một tương lai xanh hơn bằng cách cắt giảm lượng khí thải nhà kính. Nông dân Đồng bằng sông Cửu Long canh tác trên 182.000 ha đã giảm tới 50% lượng đầu vào sử dụng và tăng lợi nhuận thêm 30%. Các biện pháp canh tác bền vững của họ đã giúp cắt giảm khoảng 1,5 triệu tấn khí thải CO2 tương đương mỗi năm. Lấy cảm hứng từ sự thành công của dự án, Chính phủ Việt Nam, với sự đồng hành của Ngân hàng Thế giới, đã cam kết nhân rộng dự án lên thêm 1 triệu ha và giảm tới 10 triệu tấn CO2 tương đương ở Đồng bằng sông Cửu Long vào năm 2030. Vào tháng 9 năm 2024, Ban Quản lý Quỹ Tài sản Carbon Chuyển đổi (TCAF) đã phê duyệt đề xuất từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cam kết lên tới 40 triệu USD cho việc mua carbon dựa trên lượng giảm phát thải trong khuôn khổ "Chương trình Lúa gạo Phát thải Thấp 1 Triệu Ha".
Vốn Nhân lực
Giáo dục
Dự án Nâng cao Chất lượng Giáo dục Đại học (2017–23) đã cải thiện đáng kể năng lực nghiên cứu của bốn trường đại học, thúc đẩy 278 hợp tác mới, giảm số lượng sinh viên trên mỗi phòng thí nghiệm từ 158 xuống 81 và giúp 28 chương trình đạt được kiểm định quốc tế. Dự án cũng tăng cường hệ thống giáo dục đại học quốc gia, bằng cách phát triển một hệ thống thông tin quản lý cho 222 cơ sở và tạo ra một Thư viện điện tử đã xử lý hơn 2,7 triệu lượt tải xuống.
Y tế
Với sự hỗ trợ của Dự án Hỗ trợ hệ thống y tế khu vực Đông Bắc và Đồng bằng sông Hồng (2020–24), chất lượng và việc sử dụng các dịch vụ y tế cơ sở tại 13 tỉnh đã được cải thiện thông qua việc xây dựng 129 Trạm Y tế Xã (TYTX) và nâng cấp 332 trạm khác. Hơn 65% TYTX hiện đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia, tăng từ mức cơ sở là 40%. Dự án cũng cho phép quản lý khoảng 800.000 bệnh nhân mắc các bệnh không lây nhiễm, tăng gấp đôi so với số liệu ban đầu.
An sinh Xã hội và Việc làm
Ngân hàng Thế giới cung cấp tư vấn chiến lược cho Việt Nam để giải quyết các thách thức về lực lượng lao động và hỗ trợ các nhóm dân số dễ bị tổn thương. Ngân hàng đã đóng góp vào việc thông qua Luật Bảo hiểm Xã hội sửa đổi vào năm 2024 và đưa ra những hiểu biết sâu sắc về việc làm xanh, khi Việt Nam đặt mục tiêu đạt 60% độ bao phủ lương hưu và đóng góp vào năm 2030 trong bối cảnh già hóa dân số nhanh chóng và tỷ lệ việc làm phi chính thức cao.
Giao thông Vận tải
Với sự hỗ trợ của Dự án Đầu tư Xây dựng Cầu Dân sinh và Quản lý Tài sản Đường Địa phương (2016–24), cuộc sống của hơn 11 triệu người trên 51 tỉnh đã được cải thiện. Các tuyến đường và cầu mới và được phục hồi đã đưa các dịch vụ thiết yếu đến gần hơn với các cộng đồng vùng sâu vùng xa. Hơn 1.800 xã, nơi sinh sống của những người dân dễ bị tổn thương nhất của Việt Nam, hiện được hưởng lợi từ việc giảm chi phí vận tải và cải thiện khả năng tiếp cận trường học, bệnh viện và chợ. Dự án này đánh dấu một sự thay đổi trong chiến lược quản lý tài sản giao thông của Việt Nam từ xây dựng mới sang bảo trì thường xuyên. Gần 51.000 km đường nông thôn đã được bảo trì thường xuyên, bảo vệ tốt hơn trước nguy cơ xuống cấp và thiên tai.
Giảm nghèo
Việt Nam đã có những bước tiến lớn về giảm và cải thiện chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người dân. Ngân hàng Thế giới đã hỗ trợ những nỗ lực của Việt Nam nhằm giải quyết những thách thức cuối cùng mang tính kinh niên trong công tác xóa đói giảm nghèo. Năm 2023, tỷ lệ nghèo của Việt Nam là dưới 4%, tính theo chuẩn nghèo của Ngân hàng Thế giới cho các nước thu nhập trung bình thấp là 3,65 USD/ngày theo sức mua tương đương năm 2017.
Lần cập nhật gần nhất: 3 Tháng 5 Năm 2024