Skip to Main Navigation
Results Briefs8 Tháng 8 Năm 2023

Tăng cường năng lực xét nghiệm trong thời gian ngắn giúp Việt Nam chống dịch COVID-19

Khi cuộc khủng hoảng do COVID-19 xuất hiện vào năm 2020, Việt Nam rất cần mở rộng năng lực xét nghiệm và giám sát dịch bệnh. Dự án Ứng phó khẩn cấp với COVID-19 tại Việt Nam của Ngân hàng Thế giới được triển khai trong thời gian nhanh nhất từ trước đến nay - 6 tháng từ khi phê duyệt đến khi hoàn thành - nhờ sự hợp tác chặt chẽ giữa Ngân hàng Thế giới và các cơ quan y tế Việt Nam. Dự án đã vượt mục tiêu trong việc tăng cường năng lực xét nghiệm và giám sát, giảm thời gian xét nghiệm COVID-19 từ 2 ngày xuống chỉ còn 4 đến 6 giờ, qua đó cải thiện đáng kể năng lực ứng phó với đại dịch của Việt Nam.
Kể từ khi ca nhiễm COVID-19 chính thức đầu tiên được phát hiện tại Việt Nam vào ngày 23/1/2020, chúng tôi đã chạy đua với thời gian để tìm hiểu về loại virus được mệnh danh là virus bí ẩn này. Chúng tôi đã tổ chức rất nhiều các khóa đào tạo để tăng cường năng lực xét nghiệm trên toàn quốc. Ban đầu, thời gian xét nghiệm lên đến 24-48 giờ. Với hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới, chúng tôi đã đào tạo về xét nghiệm chẩn đoán cho hơn 600 nhân viên phòng thí nghiệm. Một năm sau, 94 phòng thí nghiệm của chúng tôi trên toàn quốc đã có khả năng xét nghiệm COVID-19. Thời gian xét nghiệm trung bình đã giảm xuống còn 4 đến 6 giờ. Tôi rất tự hào rằng những nỗ lực nền móng này của chúng tôi đã giúp Việt Nam có thể làm các xét nghiệm rộng rãi tại địa phương. Vào thời điểm đó, Việt Nam đã thực hiện nhiều xét nghiệm cho mỗi trường hợp được chẩn đoán xác định hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới, điều này góp phần vào công tác ngăn chặn virus hiệu quả của cả nước nói chung.
Image
Bà Nguyễn Lê Khánh Hằng
Phó Trưởng khoa Virus học, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (NIHE)

Thách thức

Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới xuất hiện COVID-19. Mặc dù đã ngăn chặn thành công sự lây lan ban đầu của đại dịch, Việt Nam đối mặt với nhu cầu cấp thiết phải tăng cường khả năng phát hiện và ứng phó với COVID-19. Việt nam cần cải thiện năng lực phòng thí nghiệm ở cấp quốc gia và địa phương cả về chất lượng và số lượng. Khi đại dịch bùng phát vào đầu năm 2020, cả nước chỉ có bốn phòng thí nghiệm nằm trong bốn viện y tế công cộng có trang thiết bị để thực hiện xét nghiệm COVID-19. Các phòng thí nghiệm này đối mặt với nhu cầu quá lớn, dẫn đến sự chậm trễ đáng kể trong trả kết quả xét nghiệm. Điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến các nỗ lực phòng, chống dịch.

The World Bank
Chú thích ảnh: Các buổi tập huấn do WB hỗ trợ tại NIHE đã giúp tăng khả năng xét nghiệm COVID-19.Bản quyền ảnh: NIHE.

Phương thức

Để nhanh chóng chống lại sự lây lan của dịch bệnh, dự án đã đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật tập trung vào 3 hoạt động: (a) tăng cường năng lực của hệ thống phòng xét nghiệm cho Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (NIHE), (b) tăng cường năng lực của các hệ thống phòng xét nghiệm trên toàn quốc để ứng phó với COVID-19 (tập trung vào các phòng xét nghiệm tham gia giám sát và xét nghiệm COVID-19 tại các bệnh viện và Trung tâm  Kiểm soát bệnh tật cấp tỉnh trên toàn quốc) và (c) tăng cường năng lực nghiên cứu vắc xin COVID-19 và bộ xét nghiệm (của Trung tâm Nghiên cứu và Sản xuất vắc xin và sinh phẩm [POLYVAC]).

The World Bank
Chú thích ảnh: Kỹ thuật viên tại các phòng xét nghiệm COVID-19 trung ương và địa phương. Bản quyền ảnh: NIHE.

Kết quả

Dự án đã tăng cường đáng kể năng lực xét nghiệm và giám sát dịch bệnh tại Việt Nam qua việc vừa mở rộng số lượng phòng xét nghiệm cung cấp dịch vụ xét nghiệm COVID-19 vừa giảm thời gian trả kết quả xét nghiệm.

  • Hơn 640 nhân viên từ 28 địa phương - hầu hết ở miền Bắc Việt Nam và một số ở khu vực miền Trung - đã tham dự 25 buổi đào tạo trực tiếp do các nhà virus học hàng đầu từ NIHE thực hiện. Họ đã được hướng dẫn về các quy trình tiêu chuẩn về lấy mẫu, kỹ thuật xét nghiệm, kiểm soát chất lượng và an toàn sinh học trong phòng xét nghiệm.
  • Nhờ các khóa đào tạo và trang thiết bị do NIHE cung cấp thông qua dự án này và các chương trình nâng cao năng lực xét nghiệm khác, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc mở rộng khả năng xét nghiệm trong giai đoạn đại dịch. Số lượng phòng xét nghiệm có khả năng tiến hành và xác nhận kết quả xét nghiệm COVID-19 đã tăng từ bốn phòng vào năm 2020 lên 94 trong vòng một năm và 143 phòng xét nghiệm trên cả nước vào cuối năm 2021. Thời gian trả kết quả xét nghiệm trung bình giảm từ vài ngày xuống còn 4 đến 6 giờ.
  • Một phần đáng kể của khoản tài trợ đã được sử dụng để nâng cấp cơ sở hạ tầng phòng thí nghiệm tại NIHE và POLYVAC. Hai cơ quan này đã tiếp nhận 167 thiết bị kỹ thuật, bao gồm hệ thống kính hiển vi điện tử hiện đại, giúp họ có được năng lực tốt hơn để tiến hành giám sát bộ gen của mầm bệnh và phát triển các bộ dụng cụ xét nghiệm và vắc-xin hiệu quả.
  • Việc nâng cao năng lực của các phòng xét nghiệm quốc gia và mạng lưới giám sát dịch bệnh đóng một vai trò quan trọng trong các nỗ lực ngăn chặn dịch bệnh của Việt Nam, giữ cho số ca nhiễm tương đối thấp. NIHE tích cực hỗ trợ các tỉnh trên cả nước bằng cách cung cấp thiết bị và đào tạo để nâng cao khả năng xét nghiệm của họ. Nhờ đó dẫn đến gia tăng đáng kể số lượng xét nghiệm COVID-19  do phòng xét nghiệm quốc gia thực hiện. Năm 2021, tổng số mẫu xét nghiệm đạt 111.364 mẫu, tăng đáng kể so với tổng số 41.313 xét nghiệm của năm trước.

Đóng góp của Ngân hàng Thế giới

Ngân hàng Thế giới đã cấp 6,3 triệu USD cho dự án này thông qua Quỹ Tài chính Khẩn cấp Đại dịch (PEF). Đóng góp quan trọng của Ngân hàng là các hỗ trợ và giám sát đặc biệt nhanh chóng và hiệu quả trong việc chuẩn bị và thực hiện dự án.

Đối tác

Nhóm dự án của Ngân hàng Thế giới đã hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và  Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) để xác định những thiết bị cần mua và đào tạo. Các nhân viên kỹ thuật của WHO và CDC Hoa Kỳ đã giúp phát triển các quy trình và đào tạo vận hành tiêu chuẩn (SOP) và  cung cấp thông tin cập nhật hàng ngày để hỗ trợ công tác sẵn sàng ứng phó và ứng phó với đại dịch.

Nhìn về phía trước

Năng lực xét nghiệm của Việt Nam đã được nâng cao đáng kể, từ  khoảng 14.000 xét nghiệm lên hơn 100.000 xét nghiệm mỗi ngày vào thời điểm dự án kết thúc. Việt Nam hiện có thể ứng phó với bất kỳ sự kiện y tế khẩn cấp và đại dịch nào ở quy mô tương tự như đại dịch COVID – 19.