TẢI BÁO CÁO
Tiếng Anh | Tiếng Việt
Báo cáo này lập luận rằng quá trình chuyển đổi của Việt Nam sang mô hình phát triển xanh và có khả năng chống chịu cao tuy đặt ra nhiều thách thức, nhưng cũng mở ra những động lực tăng trưởng và tạo việc làm. Báo cáo tập trung trả lời ba câu hỏi quan trọng: Việt Nam cần làm gì để thích ứng với biến đổi khí hậu? Làm sao để giảm phát thải mà vẫn thúc đẩy tăng trưởng? Và làm thế nào để phát huy tiềm năng của kinh tế biển?
Vì sao việc thực hiện các biện pháp thích ứng lại quan trọng?
Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới trước biến đổi khí hậu, xếp thứ 13 toàn cầu về mức độ rủi ro khí hậu giai đoạn 2000–2019 (theo Germanwatch). Khủng hoảng khí hậu đang đe dọa các ngành kinh tế chủ chốt như nông nghiệp, giao thông vận tải, cũng như các trung tâm đô thị và công nghiệp lớn.
Cái giá của việc không hành động là rất lớn. Các mô hình kinh tế vĩ mô cho thấy tác động của khí hậu có thể khiến sản lượng quốc gia giảm tới 9,1% so với mức cơ sở vào năm 2030 và 12,5% vào năm 2050, đồng thời làm gia tăng bất bình đẳng và làm chậm tiếnd trình giảm nghèo. Nếu không triển khai các biện pháp thích ứng, tăng trưởng GDP thực của Việt Nam trong giai đoạn 2025–2050 có thể giảm trung bình 0,33 điểm phần trăm hằng năm, ảnh hưởng đến mục tiêu của Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045.
Dù đi kèm chi phí đáng kể, việc đầu tư vào các biện pháp thích ứng có thể giảm đáng kể thiệt hại kinh tế và xã hội. Ước tính Việt Nam cần 233 tỷ USD, tương đương 0,75% GDP hàng năm, cho các hoạt động thích ứng trong nông nghiệp, cơ sở hạ tầng và bảo vệ vốn con người trong giai đoạn 2025–2050. Các mô phỏng cho thấy những biện pháp này có thể giảm mức thiệt hại dự kiến từ 12,5% GDP xuống còn 6,7%. Bên cạnh những lợi ích kinh tế vĩ mô, các khoản đầu tư còn mang lại những lợi ích khác quan trọng như tăng năng suất, tính bền vững của môi trường và khả năng phục hồi xã hội, từ đó cải thiện tỷ lệ chi phí-lợi ích của các khoản đầu tư này.